Nấm sò có những loại nào: ảnh, mô tả ngoại hình, đặc tính hữu ích đối với cơ thể con người

Các loại nấm sò thường gặp là nấm sò thường, du, phủ, phổi và thu. Tất cả các dạng này đều có những đặc tính riêng biệt, do đó chúng được sử dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp ẩm thực và dược phẩm. Xét về công dụng của nấm sò, chúng được sử dụng tích cực để chế biến nhiều món ăn, được sử dụng để chế biến các bài thuốc theo công thức y học cổ truyền để chữa lành vết thương và loại bỏ độc tố.

Vào mùa đông, những cây nấm này có xu hướng đông lại và trở nên cứng. Hơn nữa, có thể dễ dàng đánh tan chúng bằng gậy. Chất lượng của nấm sò phụ thuộc vào giai đoạn nấm bị giảm nhiệt độ mạnh. Nếu sương sớm, thì chúng có thể đóng băng khi còn nhỏ. Trong trường hợp một vài mùa đông tan băng, những cây nấm này có thể biến mất. Những phẩm chất hữu ích được bảo tồn trong mùa đông.

Bạn sẽ tìm hiểu về nấm sò trông như thế nào và đặc tính của chúng trên trang này.

Mô tả nấm sò thông thường

Mũ của nấm sò thường (Pleurotus ostreatus) có đường kính từ 4-12 cm, đặc điểm nổi bật của loài là mũ hình sò, hình bầu dục hoặc hình tròn, màu nâu xám, nâu kem, nhân trung đậm hơn. phần. Các cơ sở của quả thể được hợp nhất.

Loại nấm sò này có chân ngắn, nằm không đối xứng, phần lớn thường nằm ở phía trên mũ, cao từ 2-7 cm, dày 10-25 mm. Chân cùng màu với nắp và nằm ở bên cạnh của nắp.

Bột giấy: loãng, đặc, màu trắng, có mùi vị dễ chịu.

Các phiến kết dính, giảm dần dọc theo cuống, thường xuyên, có màu kem hoặc vàng nhạt.

Khả năng thay đổi. Màu sắc của nắp thay đổi từ nâu đến xám nâu.

Các loài tương tự. Về ngoại hình, nấm sò tương tự như nấm sò phổi (Pleurotus pulmonarius), có màu kem, mũ hình tai.

Tính chất tích tụ các chất độc hại: loài này có đặc tính tích cực là tích tụ ít kim loại nặng.

Khả năng chỉnh sửa: Nấm sò thông thường có đặc tính dinh dưỡng cao, có thể nấu và xào, đóng hộp.

Loại ăn được, thứ 2 và thứ 3 - thuộc loại mùa thu và loại thứ 3 và thứ 4 - vào mùa đông.

Nấm sò vào cuối tháng 11, đầu tháng 12 vẫn có hình dạng bình thường. Vào cuối mùa đông và đầu mùa xuân, chúng thay đổi, có màu vàng nâu.

Môi trường sống: rừng hỗn loài và rụng lá, trên gỗ mục nát, mọc thành từng tầng và từng nhóm.

Mùa: tăng trưởng chuyên sâu - từ tháng Năm đến tháng Chín, và bắt đầu từ tháng Mười Một và vào mùa đông, sự tăng trưởng ngừng lại. Vào mùa đông, trạng thái của nấm sò trên cây phụ thuộc vào giai đoạn băng giá tìm thấy chúng và khí hậu nào trước khi bắt đầu nhiệt độ đóng băng. Nếu khi bắt đầu có sương giá, các mụn nước đã đạt mức phát triển tối đa và hơi khô lại, thì vào mùa đông, chúng sẽ khô nhiều hơn một chút và treo trên cây trong sương giá ở trạng thái nửa rắn, khi đó chúng có thể bị cắt bỏ.

Nếu đến thời điểm có sương giá thời tiết ẩm ướt, nấm đông cứng và trở nên cứng, "như thủy tinh". Ở trạng thái này, không thể cắt chúng khỏi thân cây, nhưng bạn có thể đập chúng bằng gậy hoặc kẹp chúng bằng cách cạy chúng bằng dao. Không dùng rìu để tránh cây bị tổn thương.

Ở đây bạn có thể xem ảnh của một cây nấm sò bình thường, mô tả về nấm được đưa ra ở trên:

Nấm sò trông như thế nào (có ảnh)

Cây du lyophyllum, hay nấm sò du dương (Lyophyllum ulmarium) cực kỳ hiếm vào mùa đông. Trên thực tế, chúng có thể ăn được giống như nấm sò thông thường, nhưng khó tiếp cận do nằm trên thân cây cao.

Vào mùa đông, chúng thường ở lại trên các khúc quanh của cây sồi, thường ở độ cao hơn một mét rưỡi. Trạng thái bên ngoài của chúng phụ thuộc vào thời điểm mà sương giá bắt chúng.Nếu khi bắt đầu có nhiệt độ đóng băng, thời tiết không ẩm ướt và nấm sò đạt mức phát triển tối đa, thì chúng sẽ vẫn như vậy trong suốt mùa đông. Trong quá trình rã đông, chúng có thể bị khô héo, các cạnh của chúng có thể trở nên gợn sóng hơn và các cây nấm riêng lẻ từ nâu nhạt đến nâu đen và khô héo hoàn toàn.

Những loại nấm này nên được thu hoạch vào đầu mùa đông hoặc trước cuối mùa đông, nhưng không được để rã đông, khi đó chúng có thể bị héo, rụng như lá già.

Loại nấm này là loại nấm đông cô ăn được lớn nhất, có đường kính mũ trung bình từ 10 - 20 cm.

Môi trường sống: rừng rụng lá, công viên, trên các gốc và thân cây sồi, cây du, cây du và các cây rụng lá khác, đơn lẻ hoặc theo nhóm nhỏ.

Mũ có đường kính 5-15 cm, có khi tới 20 cm, lúc đầu lồi, sau dài ra.

Như bạn thấy trong ảnh, đặc điểm nổi bật của loại nấm sò này là phần mũ có màu sắc đẹp lạ thường, giống như màu của hoa hướng dương - nắng vàng, nâu vàng, bề mặt nấm da sần sùi, bóng nước. điểm:

Đến mùa đông, bề mặt của nắp trở nên vàng rơm và không còn nhìn thấy các đốm. Khi nấm mọc trên cây, ít thường xuyên hơn ở gốc cây, nó có thể có sự sắp xếp chân không đối xứng. Các cạnh của nắp được uốn cong xuống dưới, chúng có dạng gợn sóng. Màu sắc ở các cạnh nhạt hơn một chút so với phần chính của nắp. Vào mùa đông, màu sắc chuyển sang màu vàng rơm. Các mẫu vật cũ hơn sẫm màu, trở thành nâu đen hoặc nâu nâu.

Thân dài 4-10 cm, dày 7-15 mm, lúc đầu màu trắng kem, sau chuyển sang màu vàng nâu nhạt. Các cơ sở của chân thường được hợp nhất.

Cùi mềm, màu xám hoa cà, vị nhạt, gần như không mùi.

Các phiến rộng, kết dính, lúc đầu có màu trắng, sau có màu trắng đục và nâu nhạt.

Sự thay đổi: Màu sắc của nắp thay đổi từ vàng-vàng đến nâu sẫm.

Các loài tương tự. Vào mùa thu, do kích thước lớn và màu nắng và những đốm nước, cây du lyophyllum rất khó nhầm lẫn với các loài khác. Vào mùa thu, loài nấm này có thể bị nhầm lẫn về bề ngoài với một hàng đông đúc, khác biệt chủ yếu về môi trường sống - trên mặt đất, nhưng không phải trên cây. Vào mùa đông, nó không có các loài tương tự.

Phương pháp nấu ăn: luộc, rán, muối sau khi luộc sơ qua 15-20 phút.

Loại thứ 4 có thể ăn được.

Xem nấm sò của cây du trông như thế nào trong những bức ảnh này:

Nấm sò mùa thu: ảnh và mô tả

Nơi sống của nấm sò mùa thu (Pleurotus salignus): cây dương, cây bồ đề; phát triển theo nhóm.

Mùa: Nấm sò mùa thu mọc vào tháng 9 - tháng 11 cho đến khi có tuyết đầu tiên, sau đó chúng đóng băng cho đến mùa xuân, trong trường hợp không có băng tan vào mùa đông, chúng được bảo quản tốt vào mùa xuân.

Mũ của loài nấm sò này có đường kính từ 4-8 cm, có khi đến 12 cm, đặc điểm nổi bật của loài là hình mũ giống tai, màu nâu xám, có lông tơ, sau. bề mặt da. Tất cả các quả thể đều phát triển từ một gốc.

Thân cây ngắn, không đối xứng, thường ở phía bên của nắp, nó có chiều cao từ 2-5 cm và dày 10-40 mm, hình lông chim. Chân có màu kem hoặc trắng pha vàng.

Bột giấy: loãng, đặc, màu trắng, có mùi vị dễ chịu.

Như trong ảnh, các đĩa của loài nấm sò này dính chặt, nhỏ dần theo chân, thường xuyên, có màu kem hoặc vàng nhạt:

Khả năng thay đổi. Màu sắc của nắp thay đổi từ nâu xám đến nâu sẫm.

Các loài tương tự. Nấm sò mùa thu có hình dạng tương tự như nấm sò (Pleurotus ostreatus), nhưng có màu đậm hơn nhiều với chủ đạo là màu nâu đen.

Phương pháp nấu ăn: nấm có thể được luộc và chiên, đóng hộp.

Loại thứ 4 có thể ăn được.

Tiếp theo, bạn sẽ tìm hiểu các loại nấm sò khác như thế nào.

Nấm ngọc cẩu tráng men trông như thế nào?

Môi trường sống của nấm sò bao phủ (Pleurotus calyptratus): gỗ rụng lá mục nát - bạch dương, dương dương, sồi, ít thường xuyên hơn - trên các gốc cây và gỗ lá kim đang chết - vân sam và linh sam, mọc thành từng nhóm.

Mùa: Tháng 4 - Tháng 9.

Mũ của loài nấm sò này có đường kính 4-10 cm, đôi khi lên tới 12 cm, đặc điểm nổi bật của loài là mũ hình lưỡi hoặc hình tai, được bao phủ bởi một lớp vảy, kết quả là bề mặt có đặc điểm phớt, lúc đầu có màu kem xám, sau đó có màu nâu xám với các sợi xuyên tâm.

Hãy chú ý đến bức ảnh - chân của loài nấm sò này hoặc rất ngắn, nằm không đối xứng hoặc không hề:

Bột giấy: loãng, đặc, màu trắng, có mùi vị dễ chịu.

Các mảng này thường xuyên, lúc đầu màu trắng, thường xuyên, sau màu kem hoặc vàng nhạt.

Khả năng thay đổi. Màu sắc của nắp từ kem đến nâu nhạt và xám.

Các loài tương tự. Nấm sò có hình dạng tương tự như nấm sò (Pleurotus pulmonarius), được phân biệt bằng mũ màu nâu và có chân.

Phương pháp nấu ăn: nấm có thể được luộc, chiên, bảo quản.

Mô tả nấm sò phổi

Môi trường sống của nấm sò phổi (Pleurotus pulmonarius): gỗ rụng lá mục nát - bạch dương, cây dương, cây sồi, ít thường xuyên hơn - trên các gốc cây và gỗ lá kim đang chết - vân sam và linh sam, mọc theo nhóm.

Mùa: Tháng 4 - Tháng 9

Mũ có đường kính 4-10 cm, đôi khi lên đến 16 cm, đặc điểm nổi bật của loài là mũ hình lưỡi mác, hình tai hoặc hình quạt màu trắng vàng, cũng như một chân nằm ở phía bên của. mũ lưỡi trai. Các cạnh của nắp mỏng và thường có vết nứt. Màu sắc của phần giữa của nắp thường có màu nâu, và các cạnh, trái lại, nhạt hơn, hơi vàng.

Như bạn có thể thấy trong ảnh, các cạnh của nắp của loài nấm sò này có dạng sợi và có đường viền hướng tâm:

Chân ngắn, không đối xứng, thường ở phía bên của nắp, cao 1-3 cm và dày 6-15 mm. Chân có dạng hình trụ, màu trắng, rắn chắc, có lông mu.

Bột giấy: loãng, đặc, màu trắng, có mùi vị dễ chịu.

Các phiến kết dính, giảm dần dọc theo cuống lá, lúc đầu có màu trắng, thường, về sau màu kem hoặc vàng nhạt.

Khả năng thay đổi. Màu sắc của nắp từ trắng và trắng vàng đến kem và nâu.

Các loài tương tự. Nấm sò tương tự như nấm sò (Pleurotus ostreatus), được phân biệt bằng mũ màu xám xanh ở mẫu non và màu xanh xám ở nấm trưởng thành.

Tính chất tích tụ các chất độc hại: loài này có đặc tính tích cực là tích tụ ít kim loại nặng.

Phương pháp nấu ăn: đóng hộp.

Phương pháp nấu ăn: luộc và chiên, đóng hộp.

Ăn được, loại thứ 3

Những bức ảnh này cho thấy các loại nấm sò khác nhau, mô tả về chúng được trình bày trên trang này:

Tại sao nấm sò lại hữu ích?

Nấm sò có các đặc tính độc đáo - một tủ đựng thức ăn độc đáo với một tập hợp các muối khoáng và các chất thiết yếu khác cần thiết cho một người.

Chúng chứa một lượng phức hợp các vitamin: A, C, D, E, B1, B2, B6, B12, cũng như 18 loại axit amin cần thiết cho con người.

Ngoài ra, các đặc tính có lợi của nấm sò là do hàm lượng cao các enzym amylase và lipase, giúp thúc đẩy sự phân hủy chất béo, chất xơ và glycogen.

Chúng chứa cả axit este không bão hòa thiết yếu và một số hoạt chất sinh học giúp giảm cholesterol và có tác dụng chống xơ cứng.

Nấm sò rất hữu ích đối với cơ thể con người, vì chúng là một phương thuốc hữu hiệu tuyệt vời để điều trị các bệnh về dạ dày. Để thực hiện, bạn hãy lấy nước nấm tươi vắt khi bụng đói. Trong trường hợp này, viêm dạ dày và loét có thể được chữa khỏi. Các đặc tính hữu ích của nấm sò cũng bao gồm:

  • chúng cải thiện nhu động ruột;
  • dùng để chữa lành vết thương và điều trị vết loét;
  • có tính chất cầm máu, chất làm mềm và bao bọc;
  • thúc đẩy loại bỏ chất độc, chất độc, chất độc;
  • là một chất hấp thụ;
  • là một thành phần quan trọng của chế độ ăn kiêng chống cholesterol, giúp giảm mỡ máu, rất quan trọng đối với mạch tim và tuần hoàn máu;
  • Truyền nấm sò được sử dụng cho bệnh thần kinh, đối với điều này, nấm tươi thái nhỏ với số lượng 3 muỗng canh được đổ với nửa lít rượu vang đỏ, ví dụ, Cahors, và nhấn mạnh trong một tuần, truyền kết quả là uống trong 2 muỗng canh trước giờ ngủ;
  • chứa các hợp chất có hoạt tính chống oxy hóa, do đó, quá trình lão hóa của cơ thể được giảm bớt; chứa các chất thúc đẩy quá trình đào thải cholesterol ra khỏi cơ thể, giảm nguy cơ xơ vữa động mạch;
  • bổ sung nấm sò trong chế độ ăn uống làm giảm đáng kể khả năng mắc bệnh ung thư;
  • hứa hẹn trong việc điều trị bệnh sốt rét nhiệt đới.
  • Lợi ích của nấm sò đối với con người còn là chúng có hoạt tính kháng khuẩn cao.


$config[zx-auto] not found$config[zx-overlay] not found