Hàng ăn được và không ăn được: ảnh và mô tả về nấm trông như thế nào, chúng mọc ở đâu và khi nào

Cùng với mùa hè, mùa thu có nhiều loại nấm: theo giới mộ điệu “săn nấm”, loại nấm này có hương vị đậm đà hơn. Hơn nữa, vào mùa thu, bạn chỉ có thể tìm thấy hai loại nấm không ăn được và những loại nấm này có thể dễ dàng phân biệt với những loại nấm ăn được bởi mùi khó chịu đặc trưng của chúng. Mặc dù thực tế là những trái cây này chỉ được xếp vào loại thứ 4, nhưng những người hái nấm vẫn vui vẻ thu hái chúng.

Các hàng tháng 9 thường nằm giữa các khu rừng hỗn giao với ưu thế là vân sam. Bề ngoài chúng rất đẹp mắt, dày đặc, trang nghiêm, hình dáng cân đối. Có rất nhiều người yêu thích loại nấm cay này với mùi thơm đặc trưng riêng.

Ryadovki có mùi thường được tìm thấy vào tháng Mười. Chúng phát triển rất rộng rãi gần các lối đi và trong các khu rừng. Vào tháng 10, bắt buộc phải đánh hơi tất cả các loại nấm. Nhờ đó, bạn sẽ nhanh chóng xác định được những loại nấm có mùi hóa chất nguy hiểm này để ăn. Sau đó, bạn sẽ phân biệt chúng với những hàng chim bồ câu ăn được tương tự không có mùi.

Vào tháng 10, bạn vẫn có thể tìm thấy những hàng đỏ và vàng có thể ăn được tuyệt đẹp. Nếu sương chưa trôi qua, thì chúng sáng và hấp dẫn. Sau khi sương giá, màu của nắp mờ dần.

Trước khi vào rừng, hãy tìm hiểu xem hàng nấm trông như thế nào và chúng mọc ở đâu.

Các loại chèo thuyền có thể ăn được

Hàng xám (Tricholoma portentosum).

Môi trường sống của loài nấm mùa thu này: rừng hỗn giao và rừng lá kim, mọc thành từng nhóm.

Mùa: Tháng Chín tháng mười một.

Mũ có đường kính 5-12 cm, có khi đến 16 cm, lúc đầu lồi hình chuông, về sau lồi lên. Đặc điểm nổi bật của loài là bề mặt màu xám nhạt hoặc kem nhạt với phần giữa màu nâu xám đậm hơn, đôi khi có màu tím hoặc màu ô liu; bề mặt có dạng sợi xuyên tâm với các sợi hướng tâm sẫm hơn ở giữa. Chính giữa mũ nấm thường có một hàng màu xám, có một củ dẹt. Ở các mẫu vật non, bề mặt nhẵn và dính.

Chân cao 5-12 cm, dày 1-2,5 cm, màu vàng xám, phía trên phủ một lớp lông tơ. Cuống ngắn, dày ở gốc.

Cùi có màu trắng và đặc, có mùi và vị bột, lúc đầu rắn, sau có rãnh. Dưới nắp mũ, thịt có màu xám. Nấm già có thể có mùi hăng.

Các phiến có màu trắng, kem hoặc vàng xám, thẳng và được gắn bằng răng vào cuống hoặc tự do. Các cạnh của nắp và phiến có thể bị bao phủ bởi các đốm màu vàng khi chúng già đi.

Sự thay đổi: nấm có màu sắc thay đổi nhiều tùy theo giai đoạn phát triển, thời gian và độ ẩm của mùa.

Các loài tương tự: Theo mô tả của nấm, nấm ryadovka xám có thể bị nhầm lẫn với ryadovka xà phòng (Tricholoma saponaceum), giống nhau về hình dạng và màu sắc lúc còn non, nhưng khác ở chỗ có mùi xà phòng nồng ở phần cùi.

Môi trường sống: rừng hỗn giao và rừng lá kim, mọc thành từng nhóm.

Loại thứ 4 có thể ăn được.

Phương pháp nấu ăn: chiên, luộc, ướp muối. Lưu ý đến mùi hăng, không nên chọn những nấm đã chín nhất, ngoài ra, để làm mềm mùi hăng, nên nấu ở 2 nước.

Những bức ảnh này minh họa rõ ràng mô tả về hàng màu xám:

Hàng đông (Lyophyllum decastes).

Môi trường sống: rừng, công viên và vườn, bãi cỏ, gần gốc cây và trên đất giàu mùn, mọc thành từng nhóm lớn.

Mùa hái nấm ăn hàng xoắn: Tháng 7 - tháng 10.

Mũ có đường kính 4-10 cm, có khi tới 14 cm, lúc đầu hình bán cầu, sau lồi. Đặc điểm nổi bật đầu tiên của loài này là nấm mọc thành từng nhóm dày đặc với các chân đế rời rạc, khó tách rời nhau. Đặc điểm khác biệt thứ hai của loài là bề mặt gồ ghề, không bằng phẳng của nắp màu nâu hoặc nâu xám với các cạnh lượn sóng rủ xuống.

Như bạn có thể thấy trong ảnh, ở hàng này ở trung tâm, màu của nắp bão hòa hơn hoặc tối hơn ở vùng ngoại vi:

Thường có một củ nhỏ và rộng ở trung tâm.

Chân cao 4-10 cm, dày 6-20 mm, dày đặc, màu trắng hoàn toàn ở phía trên, màu trắng xám hoặc nâu xám ở dưới, đôi khi dẹt và cong.

Cùi trắng, dày ở giữa nắp, mùi vị thơm dễ chịu.

Các phiến kết dính, thường xuyên, màu trắng hoặc trắng nhạt, hẹp.

Sự thay đổi: nấm có màu sắc thay đổi nhiều tùy theo giai đoạn phát triển, thời gian và độ ẩm của mùa.

Các loài tương độc. Hàng đông trông gần giống hàng độc Entoloma màu xám vàng (Entoloma lividum), cũng có các cạnh lượn sóng và màu nắp xám nâu tương tự. Sự khác biệt chính là mùi bột trong cùi entoloma và sự phát triển riêng biệt, không đông đúc.

Loại thứ 4 có thể ăn được.

Phương pháp nấu ăn: ướp muối, chiên và ướp.

Hãy xem những bức ảnh minh họa mô tả về các hàng có thể ăn được:

Hàng bồ câu (Tricholoma columbetta).

Môi trường sống: Rừng hỗn loài và rụng lá, ở những vùng ẩm ướt, mọc thành từng nhóm hoặc đơn lẻ.

Mùa: Tháng 7 - tháng 10.

Nắp có đường kính 3-10 cm, có khi tới 15 cm, khô, nhẵn, lúc đầu hình bán cầu, sau lồi hình cầu. Một đặc điểm khác biệt của loài này là bề mặt gập ghềnh và có độ gợn sóng cao của nắp màu trắng ngà hoặc kem. Có những đốm hơi vàng ở phần trung tâm.

Nhìn vào ảnh - nấm có một hàng hình mũ chim bồ câu, bề mặt dạng sợi:

Thân cao 5-12 cm, dày 8-25 mm, hình trụ, đặc, đàn hồi, hơi thuôn ở gốc. Cùi màu trắng, đặc, bùi, sau chuyển sang màu hồng nhạt, có mùi bột và vị nấm dễ chịu, khi vỡ sẽ chuyển sang màu hồng.

Các phiến này thường xuyên, đầu tiên được gắn vào cuống, sau đó tự do.

Tương tự với các loài khác. Theo mô tả, chim bồ câu ryadovka ăn được ở giai đoạn đầu của sự tăng trưởng tương tự như ryadovka xám (Tricholoma portentosum), có thể ăn được và có mùi dễ chịu khác. Khi bạn lớn lên, sự khác biệt tăng lên do màu xám của nắp ở hàng xám.

Loại thứ 4 có thể ăn được, chúng có thể chiên và luộc.

Hàng vàng - đỏ (Tricholomopsis rutilans).

Môi trường sống: rừng hỗn giao và rừng lá kim, thường mọc trên các gốc thông và vân sam thối hoặc cây đổ, thường mọc thành từng nhóm lớn.

Mùa: Tháng chín tháng bảy.

Nắp có đường kính từ 5 đến 12 cm, đôi khi đến 15 cm, ở những mẫu non nhất thì giống như cái chỏm nhọn, hình chuông, sau lồi lên, mép cong xuống và có một củ nhỏ cùn ở trong. trung tâm, và trong các mẫu vật trưởng thành, nó phủ phục, với phần giữa hơi lõm xuống. Một đặc điểm khác biệt của loài là màu đỏ anh đào của nắp ở những mẫu non nhất, sau đó nó trở thành màu đỏ vàng với bóng sẫm hơn ở phần củ tù, và khi trưởng thành với phần giữa hơi lõm xuống.

Nhìn vào ảnh - hàng ăn được này có vỏ khô, màu vàng cam với các vảy nhỏ màu đỏ tía:

Chân cao 4-10 cm và dày 0,7-2 cm, hình trụ, có thể hơi dày ở gốc, màu hơi vàng, có vảy màu đỏ hồng, thường rỗng. Màu sắc giống với nắp hoặc nhạt hơn một chút; ở phần giữa của thân, màu sắc đậm hơn.

Cùi màu vàng, dày, xơ, đặc, có vị ngọt và mùi chua. Bào tử có màu kem nhạt.

Các phiến có màu vàng vàng, vàng trứng, hình sin, kết dính, mỏng.

Tương tự với các loài khác. Đường màu vàng-đỏ rất dễ nhận biết do màu sắc trang nhã và hình thức đẹp. Là loài quý hiếm và có tên trong Sách Đỏ ở một số khu vực, trạng thái là 3R.

Phương pháp nấu ăn: muối, ngâm chua.

Loại thứ 4 có thể ăn được.

Những bức ảnh này cho thấy những cây nấm đang chèo thuyền, mô tả về nó được đưa ra ở trên:

Dưới đây là hình ảnh và mô tả về các giống hàng không ăn được.

Các loại hàng không ăn được

Hàng màu trắng giả (Tricholoma pseudoalbum)

Môi trường sống: Rừng hỗn loài và rụng lá, được tìm thấy trong các nhóm nhỏ và đơn lẻ.

Mùa: Tháng 8 - Tháng 10.

Mũ có đường kính từ 3 đến 8 cm, lúc đầu hình bán cầu, về sau lồi lên. Đặc điểm nổi bật của loài là nắp màu trắng, trắng kem, trắng hồng.

Như trong ảnh, hàng không ăn được này có chân cao 3-9 cm, dày 7-15 mm, đầu tiên màu trắng, sau có màu trắng kem hoặc trắng hồng:

Cùi có màu trắng, sau hơi ngả vàng, có mùi bột.

Các mảng này lúc đầu dính chặt, sau gần như tự do, màu kem.

Sự thay đổi: Màu sắc của nắp thay đổi từ trắng đến trắng kem, trắng hồng và trắng ngà.

Tương tự với các loài khác. Hàng giả màu trắng có hình dạng và kích thước tương tự như Hàng tháng (Tricholoma gambosa), được phân biệt bởi sự hiện diện của các vùng màu hồng nhạt và xanh lục trên nắp.

Không ăn được do mùi vị khó chịu.

Hàng hôi thối (Tricholoma inamoenum).

Nơi hàng cau mọc: Rừng hỗn loài và rụng lá, ở những vùng ẩm ướt, mọc thành từng nhóm hoặc đơn lẻ.

Mùa: Tháng 6 - Tháng 10.

Mũ đường kính 3-8 cm, có khi tới 15 cm, khô, nhẵn, lúc đầu hình bán cầu, sau lồi. Các cạnh trở nên hơi gợn sóng theo tuổi. Màu sắc của nắp lúc đầu hơi trắng hoặc trắng ngà, lâu dần có đốm nâu hoặc hơi vàng. Bề mặt của nắp thường mấp mô. Cạnh của nắp được gấp xuống.

Chân dài, cao 5-15 cm, dày 8-20 mm, hình trụ, đặc, đàn hồi, có màu giống nắp.

Cùi trắng, chắc, bùi. Đặc điểm nổi bật của loài nấm này là mùi hôi nồng nặc cả nấm non và nấm già. Mùi này giống như mùi DDT hoặc khí đèn.

Các phiến có tần số trung bình, kết dính, màu trắng hoặc kem.

Tương tự với các loài khác. Hàng có mùi ở giai đoạn đầu của quá trình tăng trưởng tương tự như hàng xám (Tricholoma portentosum), có thể ăn được và có mùi khác, không hăng mà dễ chịu. Khi bạn lớn lên, sự khác biệt tăng lên do màu xám của nắp ở hàng xám.

Chúng không thể ăn được do có mùi nặng khó chịu, không được loại bỏ ngay cả sau khi đun sôi lâu.

Trong bộ sưu tập này, bạn có thể xem ảnh của các hàng ăn được và không ăn được:


$config[zx-auto] not found$config[zx-overlay] not found