Nấm vân sam, tím và hồng: ảnh và mô tả về các loại mokruha khác nhau
Nấm mokruha thuộc loại nấm ăn thứ tư, tức là nó thích hợp để tiêu thụ sau khi luộc sơ bộ. Nó có thể được muối và ngâm chua, và cũng có thể được sử dụng như một thành phần trong nước sốt.
Trong bài viết này, bạn sẽ được cung cấp ảnh và mô tả về các loại nấm mokruha phổ biến nhất: vân sam, hồng và tím. Bạn cũng có thể tự làm quen với từ nguyên của tên nấm, tìm hiểu xem nó mọc ở đâu và khi nào, xem ảnh nấm mokruha trong môi trường sống tự nhiên của nó.
Nấm vân sam và ảnh của nó
Loại: ăn được.
Mũ rêu vân sam (Gomphidius glutinosus) (đường kính 5-14 cm): hơi xám hoặc nâu xám, có thể có những đốm đen và màu hoa cà hoặc tím. Phần thịt, ở những cây nấm non, nó có hình bán cầu, sau đó chuyển sang dạng gần như mở, và đôi khi hơi lõm xuống. Thường có một củ nhỏ ở trung tâm. Khi sờ vào, vỏ mịn và nhầy, dễ dàng tách khỏi cùi.
Chân (chiều cao 4-13 cm): vàng chanh ở gốc và hơi xám ở đỉnh. Thường bị bao phủ bởi vảy và sẫm màu khi ấn nhẹ.
Hãy chú ý đến bức ảnh của spruce mokruha: Phần mũ rắn và lớn ở nấm non hơi sưng lên, nhưng theo thời gian nó sẽ trở thành hình trụ. Trơn và dính như một chiếc mũ. Nó được kết nối với nó bằng một tấm chăn nhầy trong suốt, bao gồm các sợi. Ở nấm trưởng thành, nó bị vỡ và tàn dư của nó tạo thành một vòng nhầy trên thân.
Các phiến có màu trắng hoặc xám nhạt, khi già đi chúng trở thành màu nâu, và ở những cây nấm già, chúng hoàn toàn có màu đen. Phân nhánh và dày, có vân đặc trưng.
Bột giấy: màu trắng hoặc hơi hồng, theo tuổi chuyển sang màu xám và ở phần gốc chuyển sang màu hơi vàng. Có vị chua và mùi thơm yếu.
Lần đầu tiên nấm rêu vân sam được nhà thực vật học, nhà nấm và côn trùng học nổi tiếng người Đức Jacob Scheffer mô tả vào năm 1774. Ông cho rằng loài nấm này thuộc họ Champignon (Agaricus) và đặt tên là Agaricus Glutinosus, có nghĩa là “răng hàm” trong tiếng Hy Lạp. Một tên khác được chấp nhận vào thời điểm hiện tại, Gomphidius Glutinosus, đã được rêu vân sam tiếp nhận vào năm 1838 nhờ các công trình của nhà khoa học Thụy Điển Elias Fries.
Đôi: rêu ăn được liên quan có màu tía (Chroogomphus rutilus) và đốm (Gomphidius maculatus), và nấm có mũ sẫm màu tương tự như nấm thông thường (Suillus luteus). Nhưng phần cùi của lông ướt tại chỗ đứt gãy chuyển sang màu đỏ rõ rệt và phần thân không có phiến.
Khi nó phát triển: từ giữa tháng 8 đến đầu tháng 10 ở các khu vực phía bắc của lục địa Á-Âu.
Tôi có thể tìm ở đâu: trong các khu rừng hỗn giao và rừng lá kim, chủ yếu bên cạnh cây vân sam và thông, thường là giữa các bụi rêu và cây thạch nam. Nếu bạn có ý định thu thập các loại nấm khác nhau, thì để không làm chúng bị dính chất nhầy, hãy xác định một nơi cách ly dành cho rêu vân sam.
Ăn: ở hầu hết mọi hình thức, phải đun sôi sơ bộ và loại bỏ da niêm mạc khỏi nắp. Nó không phổ biến ở Nga, nhưng ở châu Âu, nó được coi là một loại nấm rất ngon. Khi ngâm hoặc muối, rêu vân sam sẫm lại rất nhiều. Tính chất này ít nhất không ảnh hưởng đến hương vị của chúng.
Ứng dụng trong y học cổ truyền (chưa xác nhận dữ liệu và chưa qua thử nghiệm lâm sàng!): dưới dạng cồn thuốc như một chất kháng khuẩn hiệu quả.
Vài cái tên khác: rêu dính, sên.
Mokrukha màu tím và ảnh nấm
Loại: ăn được.
Tên mokruha màu tím (Chroogomphus rutilus) dịch theo nghĩa đen từ tiếng Latinh là "vàng-đỏ", "vàng-đỏ". Màu của mokruha này không phải lúc nào cũng có màu tím. Và cái tên cụ thể xuất hiện là do khi tiếp xúc với nhiệt độ cao, nấm trở nên chính xác là màu tím.
Mũ (đường kính 4-14 cm): Màu đỏ nâu bóng, màu đỏ gạch hoặc màu hoa cà; ở những cây nấm già, nó thường nhạt dần và mất màu loang lổ. Ban đầu có hình nón, với một củ ở giữa, theo thời gian trở nên lồi hoặc gần giống như hình chỏm. Có lớp vỏ màu nâu, để nơi tối và ẩm ướt hoặc sau khi mưa có thể phủ một lớp chất nhầy dính. Các cạnh thường được làm cong về phía bên trong.
Chân (chiều cao 4-10 cm): rắn và cong, có dạng hình trụ. Thường cùng màu với nắp, hơi dính.
Nếu bạn quan sát kỹ bức ảnh chụp nấm rêu tía, bạn sẽ nhận thấy rằng các tấm hình vòng cung của nó rất dễ dàng tách ra khỏi nắp. Thông thường chúng có màu tím hoặc tím. Ở những cây nấm già, chúng trở nên gần như đen.
Bột giấy: cùi, xơ ở phần dưới. Màu hơi vàng tại vị trí đứt gãy và khi tương tác với không khí sẽ chuyển sang màu hồng hoặc đỏ. Không có mùi và vị rõ rệt.
Sâu bọ đặc biệt thích rêu tím, vì vậy bạn nên kiểm tra kỹ cây nấm trước khi cho vào rổ.
Đôi: năm loại rêu ăn được, đó là cảm (Chroogomphus tomentosus), vân sam (Gomphidius glutinosus), Thụy Sĩ (Chroogomphus helveticus), hồng (Gomphidius roseus) và đốm (Gomphidius maculatus). Điểm khác biệt là mũ phớt có màu trắng muốt; Vân sam, theo quy luật, chỉ mọc bên cạnh vân sam, và cũng có màu xanh xám hơn; nắp của Thụy Sĩ có màu son đất và cũng có một chút cảm giác dậy thì. Rêu hồng có các mảng sáng và nắp màu hồng tươi, và loại có đốm hầu như luôn mọc dưới các cây thông.
Khi nó phát triển: từ đầu tháng 8 đến cuối tháng 9 ở các nước thuộc lục địa Á - Âu có khí hậu ôn hòa. Ở Nga, chủ yếu ở lãnh thổ châu Âu, ít thường xuyên hơn ở Siberia và Bắc Caucasus.
Tôi có thể tìm ở đâu: trên đất đá vôi của các khu rừng lá kim và rụng lá, thường xuyên nhất là bên cạnh thông và bạch dương.
Ăn: dưới mọi hình thức, miễn là da niêm mạc được loại bỏ khỏi nắp.
Ứng dụng trong y học cổ truyền: không áp dụng.
Vài cái tên khác: niêm mạc nhầy, bóng, chân vàng, chân vàng đỏ đồng.
Nấm hồng rêu và ảnh của nó
Loại: ăn được.
Mũ rêu hồng (Gomphidius roseus) (đường kính 3-6 cm): nhợt nhạt hoặc hơi xám, biến màu mạnh, đặc biệt là ở trung tâm. Khá nhỏ với các cạnh lượn sóng.
Như bạn có thể thấy trong bức ảnh chụp rêu hồng, mũ của một cây nấm non lồi lên, nhưng theo thời gian, nó trở nên phục hình. Chất nhầy khi chạm vào.
Chân (chiều cao 2-5 cm): đặc, hình trụ. Với một vòng nhầy trở nên mỏng hơn và biến mất khi nấm trưởng thành.
Tấm: thưa, đặc và bao phủ bởi chất nhầy. Ở nấm non có màu trắng, chuyển dần sang màu xám hoặc tím.
Hãy chú ý đến bức ảnh chụp cùi của nấm rêu hồng: ở phần gốc của thân cây có một màu hồng, điều này giải thích tên của loài.
Đôi: không có mặt.
Khi nó phát triển: từ cuối tháng Bảy đến giữa tháng Chín.
Tôi có thể tìm ở đâu: trên đất ẩm của rừng thông.
Ăn: tươi, muối hoặc ngâm chua.
Ứng dụng trong y học cổ truyền: không áp dụng.